Chào mừng bạn đến với sêri mới của blog: Language Review. Sêri này sẽ đi sâu vào các ngôn ngữ lập trình, đánh giá khả năng ứng dụng cũng như mức độ dễ dàng hay khó khăn khi sử dụng. Phần lớn thông tin sẽ là trải nghiệm của bản thân tôi. Mỗi bài viết cũng sẽ là tổng hợp các tài liệu đương thời về ngôn ngữ. Bạn đọc có thể tham khảo khi muốn sử dụng ngôn ngữ.

Số đầu tiên, chúng ta sẽ nói về ngôn ngữ phổ biến trên nền Web hiện nay: JavaScript.

Tài liệu

Lược sử

JavaScript, hay viết tắt là JS, là một trong những công nghệ trụ cột của thế giới Web. Khi Web mới sinh ra, nguyên lý ban đầu chỉ là chia sẻ những văn bản thuần túy. Tính chất của Web lúc bấy giờ hoàn toàn tĩnh: những đoạn văn là đối tượng chính, chuyển trang là cốt yếu. JavaScript làm thay đổi cục diện bằng việc đem lại tính động cho Web lúc bấy giờ. Bạn có thể chơi game, nhắn tin trên Web, và được nhận cập nhật thông tin gần như tức thời.

JavaScript được tạo ra trong thời gian ngắn ngủi bởi các kĩ sư ở Netscape với mong muốn nó giống Java và có thể tốc kí (script) được. Để xử lý nhanh chóng, JavaScript nay trở thành ngôn ngữ JIT (biên dịch khi chạy). Tuy nhiên, không tránh khỏi việc nhiều tính năng JavaScript thừa hưởng những sai sót từ các ngôn ngữ khác.

Phiên bản trong bài đánh giá là ECMAScript 2022. ECMAScript là tiêu chuẩn chung cho các phiên bản JavaScript được triển khai bởi các phần mềm khác nhau. Nó cũng hay được viết tắt là ES (chẳng hạn, ES 2022).

Tôi có thể chạy bằng cách nào?

  • Lựa chọn số 1 là những trình duyệt Web bạn đang sử dụng: Chrome, Firefox, … Tất cả đều có JavaScript engine.
  • Lựa chọn số 2 là tải và dùng những runtime độc lập như: Node.js, Deno, bun. Tương tự như trên, nhưng chúng ta sẽ có thêm một vài tính năng bên ngoài tương tự các ngôn ngữ khác như nhập xuất với console, tương tác với file.
  • Compile JavaScript ra mã máy khả thi, nhưng không thể đánh bại được engine như V8. Giải pháp thịnh hành hơn là ghép executable của Node.js và code JavaScript vào chung một binary (Tìm nexe).

Tính năng nổi bật

Phá (kiểu) cách, nhưng tốc độ cao

Hệ thống kiểu trong JavaScript là động, không gắn liền kiểu nhất định với một biến. Biến a nay là string, mai có thể là number, chẳng có ai cản.

let a = "Welcome";
a = 2;              // OK
a = "JavaScript";   // OK

Ấy vậy mà chớ xem thường, JavaScript đôi khi có thể ngang bằng với C++, một ngôn ngữ bậc thấp, gần với phần cứng hơn (trong điều kiện code C++ không được tối ưu bằng tay). Để có thể trở thành một nền tảng của Web hiện đại, JavaScript ắt cần phải nhanh, nhưng điều kì diệu gì đã giúp cho nó nhanh? Câu trả lời nằm ở Engine: phổ biến là V8 và SpiderMonkey. Các engine đều gồm Garbage Collector và Just-in-Time Compiler rất hiệu quả trong việc đưa ra dự đoán và khởi động (warmup). Khi tiếp nhận, bản thân mã nguồn JavaScript cũng được biên dịch trước (Ahead-of-Time compiling) và engine sẽ viết lại dưới dạng tối ưu hơn.

Một ví dụ có thể kể đến: V8 ngầm chia mảng thành hơn 20 kiểu khác nhau. Mỗi kiểu sẽ có cách tối ưu khác nhau. Nếu đoán là mảng các số liên tiếp ([1, 10, 4] chẳng hạn), V8 sẽ bật SIMD (đơn-lệnh-đa-dữ liệu) cho mảng và chúng ta được hưởng tốc độ của tính toán đa chiều (vector) nhanh hơn nhiều lần bình thường. Xem thêm: Elements kinds in V8

Tất cá tối ưu đều nhằm cho chương trình nhanh hơn, nhưng không đảm bảo về lượng bộ nhớ mà engine sử dụng.

Đánh giá kiểu - vừa tiện vừa dở

Trong JavaScript có hai loại kiểu chính, không hiện diện trực tiếp ở mặt code:

  • Loại thứ nhất là nguyên thủy (primitive), bao gồm các kiểu như number, string, boolean. Loại này có đặc điểm dễ copy (trivially copyable), nên khi gọi câu lệnh như console.log(100) thì giá trị 100 sẽ được copy truyền vào trong hàm.
  • Loại thứ hai là đối tượng (object). Loại này thường gắn liền với mô hình OOP, có trạng thái riêng (state) và hàm dành riêng (method) cồng kềnh. Chính vì đó, loại này không được copy mà chỉ được truyền bằng đường dẫn (reference), rất giống Java. Ví dụ như sau:
    const person_a = { name: "Bob" };
    const person_b = person_a;      // a và b cùng trỏ đến một object
    person_b.name = "Alice";
    console.log(person_a.name);     // Alice
    

Quy luật ngầm trên dở ở chỗ, nếu bạn muốn tạo một mảng đa chiều trong JavaScript:

const matrix_1 = Array(10).fill(Array(10).fill(0));
const matrix_2 = Array(10).fill(0).map(() => Array(10).fill(0));

Thứ trả về ở matrix_1 thực chất là một mảng 10 đường dẫn, và tất cả đều trỏ tới cùng một mảng trong bộ nhớ do Array thuộc loại đối tượng, .fill sẽ copy đường dẫn chứ không copy giá trị. Thứ chúng ta cần nằm ở matrix_2: một mảng 10 đường dẫn, mỗi đường dẫn trỏ đến mảng khác nhau. Để có thể tạo ra và lưu lại đường dẫn đến đối tượng khác nhau như vậy, chúng ta sử dụng hàm kết hợp với hàm bậc cao (Higher-order Function) .map.

Cũng nói luôn, mô hình quản lý bộ nhớ của JavaScript là sử dụng Garbage Collection: bộ nhớ còn sử dụng thì giữ, hết dùng rồi thì vứt đi, mở chỗ cho lưu trữ thông tin mới.

Tuy vậy, phần lớn các tính năng khác không hề giống Java. Nếu có ai hỏi Java và JavaScript có giống nhau hay liên quan đến nhau không, câu trả lời vẫn là không.

Không có lỗi trước mắt, chỉ có… chương trình không chạy

Đối tượng chính của Web là đại đa số người thường, không phải lập trình viên. Việc xuất hiện trước mắt màn hình đỏ kèm dòng chữ như văn tự ngoài hành tinh chẳng thể nào giúp gì cho trải nghiệm người dùng. Vì đó, JavaScript chọn sự im lặng: Dù có lỗi xảy ra bên trong nhưng bề ngoài vẫn như thường, không gì khác biệt ngoài việc chương trình chạy không đúng như mong đợi của bạn!

Mượn ví dụ ban đầu, những câu lệnh sau hoàn toàn hợp lệ:

let a = "Welcome";
a = 2;              // OK, giá trị là 2
a += "JavaScript";  // OK, giá trị là "2JavaScript"
a -= 10;            // OK, giá trị là NaN

Ngoài ra, hãy xét đoạn chương trình sau:

function print(a) {
  console.log(a);
}

Nếu bạn gọi print(2) hay print("Hi, John!") thì mọi việc hoàn toàn êm xuôi. Đến cả in một mảng print([1, 2, 3]) cũng chẳng sao cả. Thế còn print([1, 2, 3] + [4, 5]), bạn nghĩ chương trình sẽ in ra gì?

> print([1, 2, 3] + [4, 5])
1,2,34,5

Số 34 ở đâu ra? Để hiểu được điều gì đã diễn ra, bạn cần phải nắm rõ nguyên lý. Khi thực hiện các phép tính đối với + trong JavaScript, đối với kiểu khác nhau thì sẽ đưa về chung một kiểu, mà ưu tiên số một là kiểu string. [1, 2, 3] khi đổi ra string sẽ là 1, 2, 3; khi chúng ta + hai string, kết quả sẽ là một string mới ghép nối tiếp bởi hai. Đến đây thì bạn hết bất ngờ nhỉ?

Vẫn ví dụ đó, nếu câu lệnh gọi lúc này là print() thì sao? Ngữ pháp không hợp lệ? Chuyện đó không dễ dàng đến thế với JavaScript. Nếu thừa thì JavaScript sẽ cắt bớt, mà nếu thiếu thì JavaScript sẽ bù đắp bằng undefined. Thật vậy:

> print(1, "Hello")
1
> print()
undefined

Lời khuyên hữu hiệu nhất để đối phó với sự tùy hứng này là sử dụng linter như ESLint đế phân tích tĩnh chương trình và tìm ra lỗi có thể phát sinh. Hoặc ít nhất, đừng nhìn mà đoán, hãy tham khảo kĩ tài liệu trên MDN hay ECMA-262 để nắm rõ các bất quy tắc như trên.

Xem thêm: denysdovhan/wtfjs - 🤪 A list of funny and tricky JavaScript examples

Event-loop để chạy không đồng bộ

JavaScript dùng cho Web mà dừng lại chờ mỗi yêu cầu như gửi file thì sẽ rất chậm, tất cả máy chủ dùng Node.js sẽ bị DoS (Từ chối dịch vụ). JavaScript thuần tiêu chuẩn sử dụng vòng lặp sự kiện (Event-loop) để hỗ trợ lập trình không đồng bộ.

Khi chạy chương trình, JavaScript giữ một ngăn xếp ngầm chạy bên lề. Khi một lệnh không đồng bộ được đưa ra từ chương trình chính, JavaScript sẽ đẩy nó vào ngăn xếp và chạy nó cho đến khi kết quả trả về. Khi ấy, chương trình chính vẫn diễn ra như thường. Kể cả chương trình chính chạy xong rồi, event-loop vẫn sẽ đợi cho đến khi ngăn xếp đẩy hết các lệnh không đồng bộ.

Xem thêm: What the heck is the event loop anyway? | Philip Roberts | JSConf EU

Nhân tiện, một tác vụ phụ chạy không đồng bộ trong JavaScript có thể được biểu diễn bằng một Promise. Bạn có thể dễ dàng biến một hàm thành chạy không đồng bộ bằng cách thêm async vào trước. Để có thể đợi một Promise, đơn giản dùng await (trong một hàm async).

Trong đặc tả HTML Living Standard có bổ sung Web Workers, cho phép JavaScript phân phối và chạy đa luồng thông qua các Worker. Tính năng này hỗ trợ ở Chrome, Firefox, hay hỗ trợ một phần ở Node.js. Đây là một trong những ví dụ của tính năng không nằm trong tiêu chuẩn ECMAScript, nhưng đa số runtime hỗ trợ.

Xem tiếp Phần 2